Bài tuyên truyền lịch sử ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước 30/4 và ngày quốc tế lao động 1/5
1.
Lịch sử, ý nghĩa ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước 30/4.
Cách đây 47 năm cuộc tổng tiến công và nổi dậy
mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giành thắng
lợi hoàn toàn. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã đi vào lịch sử dân tộc như một
mốc son chói lọi đưa đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta từ đây tập trung
sức lực và trí tuệ hàn gắn vết thương chiến tranh xây dựng cuộc sống mới; xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chiến
thắng ngày 30/4/1975 là thành quả vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội do Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng,
chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc.
Quân và dân ta đã đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến
bộ; kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự do, thống nhất
cho Tổ quốc; chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và
mới trên đất nước ta; là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới,
góp phần thúc đẩy cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập dân
tộc, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ động viên các dân tộc đang tiến
hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn
thế giới.
Vào
cuối năm 1974 – đầu năm 1975, nhận thấy tình hình so sánh lực lượng ở Miền Nam
có sự thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã đề
ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn Miền Nam trong hai năm 1975 và 1976. Bộ Chính
trị nhấn mạnh “cả năm 1975 là thời cơ” và chỉ rõ “nếu
thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng hoàn toàn Miền
Nam trong năm 1975”. Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh cần tranh thủ thời cơ đánh
thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân dân, giữ gìn tốt cơ sở
kinh tế, công trình văn hóa, giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh. Sau chiến
thắng của quân ta ở chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế-Đà Nẵng, Bộ Chính
trị đã nhận định: “thời cơ chiến lược đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm
quyết tâm giải phóng Miền Nam” và đã đưa ra quyết định: “phải tập trung
nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ thuật và vật chất giải phóng Miền Nam trước
mùa mưa”, đồng thời chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định được Bộ Chính trị
quyết định mang tên “chiến dịch Hồ Chí Minh”. Trước khi tấn công giải phóng Sài
Gòn, quân ta đã tiến công Xuân Lộc và Phan Rang, đây là những căn cứ phòng thủ
trọng yếu của địch để bảo vệ Sài Gòn từ phía đông.
Vào
lúc 17 giờ ngày 26/4, quân ta đã nổ súng mở đầu chiến dịch, năm cánh quân của
ta đã vượt qua tuyến phòng thủ của địch để tiến vào trung tâm Sài Gòn, đánh chiếm
các cơ quan đầu não của chúng. 10 giờ 45 phút ngày 30/4, xe tăng và bộ binh của
ta tiến vào Dinh Độc Lập, bắt toàn bộ Nội các của Sài Gòn, Dương Văn Minh vừa
lên chức tổng thống ngày 28/4 đã phải tuyên bố đầu hàng quân ta không điều kiện.
Đến 11 giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ cách mạng tung bay trên Dinh Độc Lập, báo
hiệu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Đại
thắng mùa xuân 1975 đã chứng minh trí tuệ và tài thao lược của Đảng ta trong
lãnh đạo và chỉ đạo chiến tranh cách mạng, cũng như chứng minh tinh thần quật
khởi của người dân Việt Nam trong đấu tranh chống ngoại xâm. Chiến thắng đã chấm
dứt ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến ở nước ta, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước, đồng thời mở ra
một kỷ nguyên mới của dân tộc, cả nước cùng tiến lên CNXH. Thắng lợi này đã đi
vào lịch sử nước ta và của thế giới, như một trang sử chói lọi ở những năm 70 của
thế kỷ XX, mang tầm quốc tế, tầm thời đại sâu sắc.
Ngày
nay, trong công cuộc đổi mới của đất nước, chúng ta mãi tự hào và biết ơn sự hy
sinh to lớn của các anh hùng, các thế hệ cha ông ta đã chiến đấu anh dũng vì độc
lập tự do và thống nhất Tổ quốc. Chúng ta càng tự hào, tin tưởng vào sự lãnh đạo
đúng đắn, sáng suốt tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam, vào tinh thần quật cường
bất khuất và trí thông minh, sáng tạo của dân tộc ta, của quân đội ta. Mỗi người
dân Việt Nam nguyện tiếp tục phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần tự
lực, tự cường, tinh thần đại đoàn kết toàn dân, quyết tâm vươn lên hoàn thành tốt
các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh theo chương
trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội của Đảng đề ra.
2. Lịch
sử, ý nghĩa ngày Quốc tế Lao động 1/5
Hằng năm, người lao động trên toàn thế giới lại
cùng nhau kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1/5. Nhân dịp này, Đài TT xã xin gửi tới
QV và toàn thể nhân dân
lịch sử và ý nghĩa trọng đại của ngày này.
Ngay
sau khi thành lập Quốc tế I năm 1864, Mác coi việc rút ngắn thời gian lao động
là nhiệm vụ đấu tranh của giai cấp vô sản. Tại Đại hội lần thứ nhất của Quốc tế
Cộng sản I họp tại Gieneve (Thụy Sĩ) tháng 9/1866, vấn đề đấu tranh cho ngày
làm việc 8 giờ được coi là nhiệm vụ quan trọng. Khẩu hiệu ngày làm 8 giờ sớm xuất
hiện trong một số nơi của nước Anh, nước có nền công nghiệp phát triển sớm nhất.
Yêu sách này dần lan sang các nước khác.
Do
sự kiện giới công nhân viên chức Anh di cư sang Mỹ, phong trào đòi làm việc 8
giờ phát triển mạnh ở nước Mỹ từ năm 1827, đi đôi với nó là sự nảy nở và phát
triển phong trào Công đoàn. Năm 1868, giới cầm quyền Mỹ buộc phải thông qua đạo
luật ấn định ngày làm 8 giờ trong các cơ quan, xí nghiệp thuộc Chính phủ. Nhưng
các xí nghiệp tư nhân vẫn giữ ngày làm việc từ 11 đến 12 giờ.
Năm
1884, tại thành phố công nghiệp lớn Chicago, Đại hội Liên đoàn Lao động Mỹ
thông qua nghị quyết nêu rõ: "... Từ ngày 1/5/1886, ngày lao động
của tất cả các công nhân sẽ là 8 giờ". Sở dĩ ngày 1/5 được chọn bởi
đây là ngày bắt đầu một năm kế toán tại hầu hết các nhà máy, xí nghiệp ở Mỹ.
Vào ngày này, hợp đồng mới giữa thợ và chủ sẽ được ký. Giới chủ tư bản có thể
biết trước quyết định của công nhân mà không kiếm cớ chối từ.
Ngày
1/5/1886, do yêu cầu của công nhân không được đáp ứng một cách đầy đủ, giới
công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ
thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago.
Khoảng 40 nghìn người không đến nhà máy. Họ tổ chức mit-tinh, biểu tình trên
thành phố với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8
giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!” Cuộc
đấu tranh lôi cuốn ngày càng đông người tham gia. Cũng ngày hôm đó, tại các
trung tâm công nghiệp khác trên nước Mỹ đã nổ ra 5.000 cuộc bãi công với 340
nghìn công nhân tham gia. Ở Washington, New York, Baltimore, Boston... hơn
125.000 công nhân giành được quyền ngày chỉ làm 8 giờ.
Những
cuộc biểu tình tại Chicago diễn ra ngày càng quyết liệt. Giới chủ đuổi
những công nhân bãi công, thuê người làm ở các thành phố khác, thuê bọn khiêu
khích và cảnh sát đàn áp, phá hoại cuộc đấu tranh của công nhân. Các xung đột xảy
ra dữ dội khiến hàng trăm công nhân chết và bị thương, nhiều thủ lĩnh công đoàn
bị bắt, ... Báo cáo của Liên đoàn Lao động Mỹ xác nhận: "Chưa bao giờ
trong lịch sử nước Mỹ lại có một cuộc nổi dậy mạnh mẽ, toàn diện trong quần
chúng công nghiệp đến như vậy".
Ngày
20/6/1889, ba năm sau "thảm kịch" tại thành phố Chicago, Quốc tế
cộng sản lần II nhóm họp tại Paris (Pháp). Dưới sự lãnh đạo của Frederic
Engels, Đại hội lần thứ nhất của Quốc tế Cộng sản II đã quyết định lấy ngày 1/5
hàng năm làm ngày biểu dương lực lượng và đấu tranh chung của tầng lớp vô sản
các nước.
Từ đó, ngày 1/5 trở thành Ngày Quốc tế Lao động, ngày đấu tranh của giai cấp
công nhân, ngày nghỉ ngơi và biểu dương lực lượng, ngày hội của công nhân và
nhân dân lao động toàn thế giới.
Năm
1920, được sự phê chuẩn của Lê Nin, Liên Xô (cũ) là nước đầu tiên cho phép người
dân được nghỉ làm vào ngày Quốc tế Lao động 1/5. Sáng kiến này dần dần được nhiều
nước khác trên thế giới tán thành.
Tại
Việt Nam, sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời (1930), giai cấp công nhân Việt
Nam đã lấy ngày l/5 hàng năm làm ngày đỉnh cao của phong trào đấu tranh chống
thực dân, đế quốc, giành độc lập - tự do - dân chủ, giành những quyền lợi kinh
tế - xã hội. Trong thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám, việc kỷ niệm ngày Quốc tế
Lao động 1/5 phần nhiều phải tổ chức bí mật bằng hình thức treo cờ, rải truyền
đơn. Năm 1936, do thắng lợi của Mặt trận bình dân Pháp và Mặt trận dân chủ Đông
Dương, ngày Quốc tế Lao động lần đầu tiên được tổ chức công khai tại Hà Nội,
thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Đặc biệt, ngày 1/5/1938, một
cuộc biểu tình lớn gồm hàng chục ngàn người đã diễn ra ở khu Đấu xảo Hà Nội với
sự tham gia của 25 ngành, giới: thợ hoả xa, thợ in, nông dân, phụ nữ, người cao
tuổi, nhà văn, nhà báo, ... Đây là cuộc mit tinh lớn nhất trong thời kỳ vận động
dân chủ (1936 - 1939), một cuộc biểu dương sức mạnh đoàn kết của nhân dân lao động
do Đảng lãnh đạo. Nó đánh dấu một bước trưởng thành vượt bậc về nghệ thuật tổ
chức và lãnh đạo của Đảng ta.
Ngày
nay, ngày Quốc tế Lao động đã trở thành ngày hội lớn của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động Việt Nam. Đây cũng là ngày biểu thị tình đoàn kết hữu
nghị với giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới, cùng đấu tranh
cho thắng lợi của hòa bình, tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội.